Bia điện Nam Giao Đàn Nam Giao (Thăng Long)

Bia điện Nam Giao
南郊殿碑記
Bảo vật quốc gia số 17, đợt 4
Bia điện Nam Giao tại Bảo tàng lịch sử Quốc gia
Chất liệuĐá
Kích thướcĐế: 214 cm x 156 cm x 51 cm
Chiều cao213 cm
Chiều rộng146 cm
Chiều dày34 cm
Hệ chữ viếtChữ Hán
Niên đại1679
Thời kỳ/Văn hóaNhà Lê Trung Hưng
Hiện lưu trữ tạiBảo tàng Lịch sử Quốc gia
Số đăng kýLSb.32852[3]

Bia điện Nam Giao (chữ Hán: 南郊殿碑記 Nam Giao điện bi ký) là tấm bia được dựng tại Đàn Nam Giao Thăng Long. Tấm bia là di vật còn sót lại chứa đựng nhiều giá trị to lớn về Đàn Nam Giao Thăng Long nói riêng và về lịch sử, văn hóa, kiến trúc của thời Lê Trung Hưng nói chung. Bia được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia năm 2015.

Bia hình chữ nhật, trán cong hình bán nguyệt, đặt trên bệ hình khối hộp chữ nhật ba cấp. Hoa văn được trang trí trên tấm bia thể hiện đề tài đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc thời Lê Trung Hưng. Diềm trán bia chạm khắc đề tài lưỡng long chầu nguyệt và mây. Diềm xung quanh bia chạm rồng, phượng, mây, hoa mẫu đơn, cúc, băng lá đề kép và vân mây hình khánh. Bệ chân đế bia chạm khắc nổi long mã và hoa lá. Mặt trước của bia khắc bài minh bằng chữ Hán, do Tiến sĩ Nguyễn Tiến Triều soạn thảo, Tiến sĩ Hồ Sĩ Dương nhuận chính[3].

Minh văn khắc trên bia cho biết rõ về ý nghĩa lịch sử và quá trình xây dựng điện Nam Giao. Nơi vua và triều thần tiến hành đại lễ vào đầu xuân hàng năm, cầu cho quốc thái dân an.

Bài ký trên bia được dịch nghĩa như sau[3]:

BÀI KÝ BIA ĐIỆN NAM GIAO

Tế Giao lại đặt tên điện Chiêu Sự là vì sao? Là vì nơi đó phụng sự Thượng đế. Làm sáng tỏ lễ Tế Giao thì việc trị nước dễ như chỉ bảo trên lòng bàn tay. Kính nghĩ, nước Đại Việt ta xây dựng mở mang trong trời đất muôn dặm như vậy. Đóng đô, xây thành rõ ràng việc xây dựng đất nước; Chọn hướng chính vị, tỏ lòng cung kính với trời. Lấy góc phía Nam thành để dựng điện Nam Giao Chiêu Sự. Vào sớm mồng một đầu năm nghênh tế ở đây. Lễ ấy cử hành trải qua bao đời vẫn giữ, nhưng xây dựng chưa được hoàn hảo, tô điểm cũng chưa thật tinh xảo, chưa đủ để báo ơn trời lớn lao. Cầu mong công trình này có được một quy chế từ xưa chưa có, làm được một việc từ xưa chưa ai làm, hẳn là phải đợi ở bậc Thánh vương có khí trượng vượt qua người thường!

Nay Đại nguyên soái Chưởng quốc chính, Thượng sư Thái phụ, Đức công Nhân uy, Minh thánh Tây vương, trời cho thông tuệ, trung hậu nghiệp nhà, tiếp nối Vương nghiệp, trợ giúp Hoàng đồ, phò giúp Đương kim Hoàng thượng giữ vững ngôi vua, nối được phúc lành, lại ủy sai Nguyên soái Điển quốc chính Định Nam vương, quyết đoán mọi việc, mở mang trị bình.

Thường nghĩ, bậc vương giả, trên vâng mệnh trời đất, dưới vỗ về triệu dân. Biết kính trời thì thịnh trị có thể bền vững, thái bình có thể giữ mãi. Vậy nên thời và điềm, không phải được bắt đầu ở trời sao. Hàng năm vào ngày mồng một tháng Giêng mùa xuân, tự thân phò xa giá Hoàng thượng dẫn các quan triều nghiêm chỉnh đến sân điện, tiến hành đại lễ, cung kính cung kính hết mức, còn cho rằng như thế cũng chưa đủ. Thế là bèn ra uy quyết đoán, chọn lấy ngày lành, tập trung các thợ. Cột xà chọn lựa gỗ tốt; Mực thước theo cung Trường Sinh. Tháo bỏ các thứ cũ xưa, dựng xây toàn công phu mới. Đến tháng 9 mùa thu năm Quý Mão (1663) niên hiệu Cảnh Trị thứ nhất thì khởi công, đến cuối năm Giáp Thìn, niên hiệu Cảnh Trị thứ hai (1664) thì hoàn thành. Nền xây bằng gạch, trụ dựng cột đá. Đao cong rực rỡ, đầu rồng dưới mái sóng đôi. Góc uốn huy hoàng. Chân ngao vững vàng cân đối. Rỡ ràng quy mô đổi mới. Hiên ngang xây lại đất trời. Ngôi điện này không chỉ bày tỏ lòng tôn kính đương thời, mà còn muốn truyền mãi cho đời sau. Thế là bèn thuê thợ khắc đá truyền cho đời sau để biết được tấm lòng của Vương thượng, cung kính giữ bên trong, khiêm nhượng biểu hiện ở ngoài. Công thực dày, đức thực lớn. có công đức ấy hẳn sẽ có phúc thọ ấy. Phúc của trời, lộc trời dư dật. Thọ bởi trời ban, tuổi thọ trời cho. Ngàn phúc trăm phúc con cháu muôn ngàn đời dài mãi và cả nghiệp Đế, nghiệp Vương, mệnh trời ban cho dài mãi.

Kính cẩn ghi lại.

Ngày tốt Quý Mùi tháng 10 mùa đông, năm Vĩnh Trị thứ 4 Hoàng triều (1679).

Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Tham tụng, Công bộ Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, Duệ Quận công Hồ Sĩ Dương, người xã Hoàn Hậu huyện Quỳnh Lưu, cung kính nhuận chính.

Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Cai quan Thự vệ sự, Luân Quận công Vũ Công Chấn, người xã An Cự, huyện Thiên Bản, vâng làm đốc công.

Quang tiến Thận lộc Đại phu, Đông các Hiệu thư, Xuân Trạch nam Nguyễn Tiến Triều, người xã Nam Nguyễn, huyện Phúc Lộc, vâng lệnh soạn thảo.

Quang tiến Thận lộc Đại phu, Cai hợp Thị nội Thư tả, Binh bộ Lang trung, Hương Thọ nam Lê Công Chính, người xã Đình Luân, huyện Gia Lâm, vâng lệnh viết chữ.